I. Quá trình hình thành và phát triển
Trung tâm Y tế Dự phòng tỉnh Ninh Bình được thành lập từ năm 1992, kế thừa nền tảng từ Trạm Vệ sinh phòng dịch Ninh Bình. Khi mới thành lập, đơn vị chưa có trụ sở cố định, trang thiết bị còn thô sơ và thiếu thốn. Đến năm 1996, Trung tâm có trụ sở riêng tại phường Phúc Thành, thị xã Ninh Bình (nay là TP. Ninh Bình). Một năm sau, đơn vị chính thức được nâng cấp thành Trung tâm Y tế Dự phòng cấp tỉnh.
Đến tháng 5 năm 1999, Trạm Sốt rét bướu cổ tỉnh được sáp nhập vào Trung tâm theo quyết định của UBND tỉnh. Năm 2012, Trung tâm được đầu tư xây dựng mới với diện tích hơn 3.500m², có ba khối nhà cao tầng và hệ thống trang thiết bị hiện đại, đặc biệt là khu xét nghiệm đạt chuẩn phục vụ tốt công tác phòng chống dịch, khám bệnh nghề nghiệp và kiểm nghiệm môi trường.
II. Nhân lực
Từ 43 biên chế vào năm 2000, Trung tâm hiện đã có 65 chỉ tiêu được giao. Tính đến tháng 10 năm 2014, đội ngũ cán bộ gồm 62 người (không tính lao động hợp đồng), trong đó gần một phần tư là bác sĩ, khoảng 19% là cán bộ chuyên ngành xét nghiệm. Về trình độ, có gần 10% đã hoàn thành sau đại học, khoảng 38% có bằng đại học, còn lại là cao đẳng, trung cấp và các chuyên môn khác.
Trung tâm luôn ưu tiên nâng cao chất lượng nhân lực, chủ động tiếp nhận cán bộ có trình độ cao từ các trường đại học y dược, đồng thời đã xây dựng đội ngũ khám sức khỏe định kỳ và đang tiến hành thủ tục xin thành lập phòng khám đa khoa.
III. Chức năng và nhiệm vụ
Trung tâm là đơn vị chuyên môn về y tế dự phòng, có nhiệm vụ triển khai các chương trình về phòng chống dịch bệnh, an toàn thực phẩm, sức khỏe môi trường, y tế học đường, dinh dưỡng cộng đồng, và kiểm dịch y tế. Ngoài ra, Trung tâm còn chịu trách nhiệm hướng dẫn chuyên môn kỹ thuật cho tuyến dưới, tham gia tuyên truyền nâng cao nhận thức cộng đồng, đào tạo lại cán bộ y tế, nghiên cứu khoa học, quản lý và triển khai các dự án thuộc lĩnh vực dự phòng.
Đơn vị cũng thực hiện công tác kiểm tra, giám sát hoạt động chuyên môn trong tỉnh, quản lý nhân sự, tài chính, vật tư và phối hợp với các cấp để hoàn thành các nhiệm vụ đột xuất theo chỉ đạo.
IV. Một số hoạt động nổi bật
Trong những năm qua, Trung tâm đã chủ động phòng chống hiệu quả nhiều đợt dịch nguy hiểm như SARS, cúm A/H1N1, H5N1, dịch tả và liên cầu lợn. Tình hình sốt rét và sốt xuất huyết được kiểm soát tốt, không có tử vong. Tỷ lệ tiêm chủng mở rộng ở trẻ em và phụ nữ mang thai luôn đạt trên 96%, góp phần thanh toán bệnh bại liệt, loại trừ uốn ván sơ sinh và không để xảy ra các ca bạch hầu.
Công tác dinh dưỡng và vệ sinh môi trường cũng đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận: tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân giảm xuống dưới 15%, trên 69% hộ dân có nhà vệ sinh đạt chuẩn. Trung tâm đã chủ động tham gia phục vụ công tác y tế trong các sự kiện quốc tế lớn như Đại lễ Phật đản Liên Hợp Quốc (Vesak 2014) và Hội nghị Bộ trưởng Y tế ASEAN 2014.
V. Một số kết quả đáng ghi nhận trong giai đoạn 2000–2014
Trung tâm đã vinh dự nhận được nhiều phần thưởng cấp nhà nước và bộ ngành, bao gồm Huân chương Lao động hạng Nhất, bằng khen của Thủ tướng Chính phủ trong nhiều năm, bằng khen từ Bộ Y tế và UBND tỉnh, cùng với nhiều hình thức khen thưởng khác từ các đơn vị trong và ngoài ngành y tế.
Đây là sự ghi nhận cho những nỗ lực bền bỉ trong công tác chuyên môn và quản lý, cũng như đóng góp vào việc nâng cao chất lượng y tế dự phòng của tỉnh Ninh Bình.
VI. Tình hình thực hiện kế hoạch năm 2013
Trong năm 2013, công tác phòng chống dịch bệnh tiếp tục được triển khai bài bản. Trung tâm phối hợp với các địa phương lập kế hoạch, tổ chức đội phản ứng nhanh, chuẩn bị đầy đủ thuốc, hóa chất, phương tiện cần thiết để chủ động ứng phó với dịch. Nhờ đó, tỉnh không để xảy ra các đợt dịch lớn, phần lớn các bệnh truyền nhiễm đều giảm, ngoại trừ một vài ca đơn lẻ như cúm A/H1N1 và liên cầu lợn.
Chương trình tiêm chủng mở rộng đạt tỷ lệ cao: hơn 96% trẻ dưới 1 tuổi được tiêm đầy đủ, trên 97% phụ nữ có thai được tiêm phòng đầy đủ. Công tác đào tạo, giám sát an toàn tiêm chủng được đẩy mạnh với 10 lớp tập huấn cho gần 600 cán bộ.
Trong lĩnh vực sức khỏe môi trường và trường học, chất lượng nước sinh hoạt được giám sát định kỳ. Mặc dù vẫn còn một số trạm cấp nước nông thôn không đạt chuẩn, tỷ lệ hộ sử dụng nước máy và có nhà tiêu hợp vệ sinh đều tăng nhẹ so với năm trước.
Trung tâm cũng đẩy mạnh truyền thông nâng cao nhận thức, tổ chức tập huấn và xây dựng mô hình nhà tiêu hợp vệ sinh tại các huyện trọng điểm như Kim Sơn, Yên Khánh và Yên Mô.